Giá đất xã Quảng Thành Huyện Quảng Điền Tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2014

7. Xã Quảng Thành:

7.1. Giá đất ở nằm ven đường giao thông chính:

Đơn vị tính: đồng/m²
TT
Địa giới hành chính
Vị trí 1
Vị trí 2
Vị trí 3
1
Tỉnh lộ 4




Đoạn từ cầu ông Dụ đến cầu Thanh Hà
500.000
300.000
210.000
2
Tuyến từ cầu Tây Thành 2 đến cống Bản (nhà ông Chua km 8 + 500);
Tuyến từ cổng An Thành đến chợ Tây Ba
290.000
180.000
145.000
3
Tuyến từ cầu Tây Thành 1 đến cầu Kim Đôi
270.000
170.000
135.000
4
Tuyến đường WB2: Từ Tỉnh lộ 4 đến trường Mẫu giáo Phú Thanh (thôn Thanh Hà)
280.000
175.000
140.000
5
Tuyến từ cầu chợ Tây Ba đến nhà ông Đô;
Tuyến từ cống An Thành đi Thành Phước (điểm đầu nối với đường An Thành đến chợ Tây Ba);
Tuyến từ cầu Tây Thành 2 đến cầu Ruộng Cung
270.000
170.000
135.000
6
Tuyến đường nhà Ông Đô đến cầu Thủy Điền; Tuyến đường đầu Kim Đôi đến cuối xóm Ba Gò
260.000
160.000
130.000
7
Tuyến đường đập Mưng từ Tỉnh lộ 4 đến hói Ngang
290.000
180.000
145.000
8
Tuyến từ cổng làng Phú Lương A đến cống Đông Xuyên
250.000
155.000
125.000

7.2. Giá đất ở các khu vực còn lại:

Đơn vị tính: đồng/m²
Khu vực
Địa giới hành chính
Vị trí 1
Vị trí 2
KV1
Các thôn: Tây Thành, Thanh Hà, An Thành Trên, Thành Trung, Phú Ngạn
135.000
105.000
KV2
Các thôn: An Thành Dưới, Phú Lương A, Kim Đôi, Thủy Điền
105.000
80.000
KV3
Thôn Quán Hòa
75.000


nghiên cứu tác động của biến đổi khí hậu và xây dựng mô hình thích ứng ở vùng trũng thấp tỉnh Thừa Thiên Huế

Từ những kết quả nghiên cứu đạt được về các biểu hiện và tác động của biến đổi
khí hậu tại tỉnh Thừa Thiên Huế, nghiên cứu này đã tiếp tục xây dựng được một số mô
hình thích ứng với biến đổi khí hậu cho vùng trũng thấp, gồm: Mô hình trồng rau; Mô
hình nuôi thủy sản và Mô hình nhà cộng đồng.

Bài viết và Tư liệu nghiên cứu về thành Hóa Châu

Hóa Châu thành được xây dựng dựa vào địa hình sẵn có của tự nhiên, trên dải đất cao, thoáng, nằm dọc theo hướng Tây Nam  -Đông Bắc,song song với khúc sông Hương, từ ngã Ba Sình đến cồn Quy Lai, quanh thành là đồng ruộng khá bằng phẳng và hệ thống sông ngòi dày  đặc.

Mô hình nuôi trồng thủy sản thích ứng với Biến đổi khí hậu ở vùng ven phá Tam Giang

nuoi trồng thủy sản phá tam giangDựa trên cơ sở nuôi trồng thủy sản là ngành có truyền thống lâu đời của người dân
vùng ven phá Tam Giang nói chung và khu vực thôn Quán Hòa nói riêng. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây do ảnh hưởng của dịch bệnh, thiếu vốn và đặc biệt do ảnh hưởng của
BĐKH đã gây không ít khó khăn cho cộng đồng người dân nơi đây.  Mô hình nuôi xen cá
kình-tôm sú và mô hình nuôi xen tôm sú-cá dìa-cua  thích ứng với BĐKH  được Viện Tài
nguyên,  Môi trường và Công nghệ sinh học-Đại học Huế triển khai xây dựng cho cộng
đồng  người  dân  ở  thôn  Quán  Hòa,  xã  Quảng  Thành,  huyện  Quảng  Điền  và  thôn  Vân
Quật Đông, xã Hương Phong, huyện Hương Trà.
110
Nội dung thí điểm mô hình này được triển khai bằng sự phối hợp, thảo luận giữa
chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư cùng nhóm chuyên gia tư vấn.
Mục tiêu của
mô hình thí điểm nhằm thử nghiệm các  loại  mô hình nuôi trồng thuỷ sản  vùng ven phá
Tam Giang theo hướng quảng canh cải tiến, chủ yếu tập trung vào  mô hình nuôi xen cá
kình  –  tôm sú; cá dìa  –  tôm sú  –  cua. Đồng thời hướng đến việc tiếp tục hoàn thiện quy
trình kỹ thuật nuôi xen nhiều đối tượng trong một mô hình đảm bảo tính bền vững và thích
ứng với BĐKH.
Kết quả mang lại từ mô hình cho thấy, mô hình nuôi xen tôm sú -  cá kình trên địa bàn
xã Quảng Thành cho hiệu quả tương đối tốt, lãi từ 13-15 triệu đồng. Đối với các mô hình
nuôi xen tôm sú -  cá dìa -  cua trên địa bàn xã Hương Phong cho hiệu quả khá  tốt, lãi trên
20 triệu đồng. Cá dìa ở đây phát triển tốt, điều kiện môi trường nước khá phù hợp.



Trích KỶ YẾU HỘI THẢO BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU KHU VỰC MIỀN TRUNG  BỘ VÀ TÂY NGUYÊN – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ỨNG PHÓ

Vang vọng Hóa Châu

Trong bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết: “Châu Hoá! Tổ quốc đã trao cho nó một mảnh đất - đứng giữa ngã ba sông này, và nó đã trụ vững ở đây qua bão táp của bao thế kỷ, giống như một hòn đảo huyền thoại. Châu Hoá! Chiều nay tôi muốn gọi nó bằng cái tên vinh quang một lần đất nước đã tuyên dương “Vạn lý Trường Thành ở phương Nam”.Vùng đất huyền thoại mà nhà văn của chúng ta đã kính cẩn gọi tên đó bây giờ vẫn còn lưu dấu tích của hàng mấy trăm năm về trước. Những tên đất tên làng như Thành Trung, An Thành, Tây Thành, Tiền Thành hay những đám ruộng Thành Dọc, Thành Ngang cho thấy dấu ấn của thành Hóa Châu đối với vùng đất này.

Những phát hiện thú vị

Từ năm 2009 đến 2012, Khoa Lịch sử, Trường đại học Khoa học Huế cùng với các nhà nghiên cứu của Đại học Osaka - Nhật Bản đã tiến hành khảo sát, trắc địa và thám sát để nghiên cứu cấu trúc, niên đại khu vực thành Hóa Châu với 17 hố thám sát tại 15 điểm và đã có nhiều phát hiện mới như: Ngoài đặc điểm chung của các thành cổ Champa có hình vuông, dài; thành Hóa Châu không chỉ có 2 vòng lũy thành (thành ngoài và thành nội) như một số thành cổ Champa mà còn có những lũy thành ngắn khác. Chu vi thành ngoài hơn 4.700m, có quy mô chỉ đứng sau thành Chà Bàn ở Bình Định và lớn hơn các thành cổ Champa khác ở miền Trung. Bên trong của thành ngoài có hai con sông Kim Đôi và Tiền Thành nối với sông Bồ và phá Tam Giang được cho là 2 con sông nhân tạo vì chạy rất thẳng và có chiều rộng đều nhau; 2 con sông này có vai trò rất lớn về mặt giao thông thủy của thành. Thành Hóa Châu cũng là thành lũy chứng kiến lịch sử dài nhất ở miền Trung Việt Nam trải qua nhiều thời kỳ văn hóa từ Sa Huỳnh - Champa - Đại Việt...



Một hố thám sát thành Hóa Châu


GS.TS Nishimura Masanari - Đại học Osaka - Nhật Bản, người trực tiếp thám sát ở Hóa Châu nhận định: “Nếu không có thành Hóa Châu thì không có lịch sử của Huế bởi Hóa Châu chính là nơi tiếp xúc văn hóa Chămpa với văn hóa Đại Việt, là nơi để Đại Việt làm cơ sở Nam tiến. Cũng cần có một công trình kiến trúc về Huyền Trân Công chúa ở vùng đất này bởi trước khi vào làm dâu Champa, Huyền Trân Công chúa đã đến lưu trú ở đây...”.





Khu vực thành Hóa Châu bây giờ




Kết quả nghiên cứu khảo cổ học về thành Hóa Châu cho thấy, dấu tích thời Trần dày đặc hơn cả các giai đoạn lịch sử khác. Đây cũng là giai đoạn của Thành Hóa Châu, khả năng bắt đầu từ thế kỷ XIV. Trong giai đoạn này, nhà Trần đã đắp đất để mặt bằng cao lên và xây dựng những kiến trúc tương đối kiên cố ở khu vực trong và cả khu vực ngoài của Thành Nội. Vào thời nhà Hồ - đầu thế kỷ XV, việc đắp cao mặt thành và các công trình kiến trúc tiếp tục được thực hiện; đặc biệt kết quả thám sát của các nhà khảo cổ học Nhật Bản cũng cho thấy khả năng vào giữa thế kỷ XV, nhà Hồ đã xây dựng tường trên nền Thành Nội theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Khu vực thành Hóa Châu còn có rất nhiều hào, hố nước kể cả bên trong khu Thành Ngoại. Đây là một đặc trưng thành quách của Hóa Châu. Một kết luận khá thú vị cũng được GS.TS Nishimura Masanari đưa ra là: “Vì sao người dân làng Thành Trung lại nổi tiếng với nghề trồng rau, rau Thành Trung từng cung tiến cho vua Nguyễn và rất nổi tiếng với tên gọi rau phường Thành. Bởi vì làng Thành Trung ở ngay trên mặt thành Hóa Châu xưa, được bồi đắp qua nhiều giai đoạn nên bây giờ đất đai của làng Thành Trung cao, không bị lũ lụt và phát triển được nghề trồng rau quanh năm...”

Một sự lãng quên

Kết quả khảo cổ học thành Hóa Châu còn phát hiện các hiện vật: gốm sứ, sành, gốm thô, đồ gạch, ngói, đồ đá và đồ thủy tinh của nhà Trần, nhà Hồ, Trung Hoa, Champa từ thế kỷ IX đến thế kỷ XV; trong đó có một số mảnh thủy tinh có thể được sản xuất tại vùng Islam (Trung Ấn)? Với tính chất lịch sử, văn hóa quan trọng của thành Hóa Châu, GS.TS Nishimura Masanari đã kiến nghị, cần tiến hành lập hồ sơ để công nhận Di tích Lịch sử Văn hóa cho khu thành cổ này. Cùng chung quan điểm, ông Đào Lý - Bí thư Đảng ủy xã Quảng Thành - huyện Quảng Điền và là một người con của làng Thành Trung bày tỏ: “Tôi là người đã cùng làm việc với các đoàn khảo cổ, thám sát sử học. So với lần trước thì lần này, các nhà khảo cổ học của Nhật Bản và Việt Nam làm việc khoa học, chuyên nghiệp hơn. Nhiều di tích, di vật đã được tìm thấy cho thấy thành Hóa Châu là một khu thành có vai trò lớn trong lịch sử dân tộc. Chúng tôi mong muốn ngành văn hóa cũng như các cơ quan chức năng tiến hành lập hồ sơ công nhận di tích lịch sử văn hóa cho khu vực thành Hóa Châu...”

Làng quê từng là trung tâm của thành Hoá Châu xưa bây giờ bình yên trong sắc xanh của rau. Rau từ nhà ra ngõ, rau điểm xuyết cho cảnh sắc của làng. Những ngò, cải, tần ô, rau thơm, xà lách... cứ thế trổ lá đơm hoa là nguồn thu nhập chính của dân làng từ xưa đến nay, mà nói như ngôn ngữ của họ là “mớ rau - thau bạc”. Thành Hóa Châu xưa đã từng chứng kiến những trận chiến của quân dân Đại Việt để giữ yên bờ cõi. Danh tướng Trương Hán Siêu, tác giả của “Bạch Đằng Giang Phú” từng đến nơi này. Hai cha con anh hùng Đặng Tất, Đặng Dung từng quyết tử ở cửa thành Hóa Châu xưa và để lại cho hậu thế những vần thơ khí khái: “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch - Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma”(Thù nước chưa xong đầu đã bạc - Gươm mài bóng nguyệt đã bao lần). Tầm vóc của Hoá Châu đối với lịch sử của Huế và của cả dân tộc là vô cùng lớn... Nhưng thành cổ Hoá Châu xưa vẫn chưa được công nhận là di tích lịch sử văn hóa. Một sự lãng quên thật đáng tiếc và cũng thật đáng trách. “Lòng ta là những hàng thành quách cũ - Tự ngàn năm bỗng vẳng tiếng loa xưa”. Châu Hoá chiều nay tôi về bỗng như nghe âm âm tiếng trống trận và lời thơ thống thiết của Đặng Dung. Giọng thơ yêu nước đó đã lay động qua mấy trăm năm, từ Thuận Hóa - Phú Xuân cho đến Thừa Thiên Huế ngày nay...
Phi Tân -Báo Thừa Thiên Huế