1. Vấn đề nghiên cứu
Khu vực đầm phá Tam Giang - Cầu Hai, tên gọi đầy đủ của một phức hệ sinh thái
đầm phá đặc biệt, rộng lớn bậc nhất Đông Nam Á, ngày trước phổ biến danh xưng phá
Tam Giang, phá Hà Trung (QSQ triều Nguyễn, 2003: 1417), với sự đa dạng của các
giống loài động thực vật, là môi trường sinh s ống tự bao đời của các cộng đồng cư dân
trong vùng. Văn minh sông nước gắn liền với nông nghiệp lúa nước, do vậy, cũng trở
thành một nét đặc trưng trong việc tìm hiểu văn hoá Huế.
Tuy nhiên, do sự chi phối nghiệt ngã của yếu tố nông nghiệp lúa nước, trên nền tảng
“trọng nông”, “dĩ nông vi bản” ngày càng được cổ suý qua các triều đại phong kiến, nên
ngư nghiệp và các phương thức kinh tế ngoài nông nghiệp đều bị coi là “mạt nghệ ”… và
suốt một thời gian dài, trong các mối quan hệ xã hội, luôn bị “kẻ Rọong” miệt thị với
những danh xưng đầy tính phân biệt: Vạn đò, k ẻ Vạn, kẻ Nốôc, con buôn, …
Từ năm 2003-2004, chúng tôi từng khảo sát ở làng Phong Lai, đầu nguồn phá Tam
Giang, về sự phân biệt đến mức miệt thị trong mối quan hệ nông - ngư diễn ra rất sâu s ắc,
thậm chí hiện tượng hôn nhân giữa hai cộng đồng nông - ngư cũng chỉ rất cá biệt. Đến
khi lúa gạo trở thành hàng hoá phổ thông, và các nguồn lợi thuỷ hải sản lên ngôi, đặc biệt
là từ nhu cầu đột biến phục vụ du lịch, xuất khẩu… thì cán cân quan hệ đã có sự dịch
chuyển theo hướng tích cực, từ đời sống kinh tế lẫn xã hội (Trần Đình Hằng, 2006).
Từ đó, mặt nước sông Hương và phá Tam Giang càng được chú tâm khai thác bởi
ngư dân (trong quá trình định cư “lên bờ ”) lẫn nông dân ( “xuống nước”), theo phương
thức đánh bắt và phát triển mạnh nuôi trồng thuỷ hải sản theo các chương trình khuyến
nông - ngư, bằng nhiều nguồn vốn vay ưu đãi, sự bổ trợ của các trang thiết bị hiện đại.
Không chỉ ở nông thôn, thậm chí chính từ trung tâm đô thị Huế, phế thải của quá
trình đô thị hoá, của ngành du lịch, và cả công nghiệp, về cơ bản đều đổ trực tiếp ra sông
Hương, làm cho vấn đề ô nhiễm nguồn nước hoàn toàn vượt ra khỏi khả năng kiểm soát
đậm tính truyền thống của các cộng đồng làng xã, các vạn thuỷ diện.
Điểm giống nhau từ thái độ miệt thị trước đây cho đến ưu đãi đầu tư phát triển hiện
nay đối với vùng sông nước là rất cực đoan, phát triển thiếu bền vững. Vấn đề căn
nguyên ở đây là hầu như vùng sinh thái nhân văn đặc biệt độc đáo này luôn bị đối xử,
xem xét dưới nhãn quan của người nông dân quen sống trên cạn mà thiếu sự tôn trọng, bỏ
qua vốn tri thức bản địa của các cộng đồng cư dân trong việc quản lý, khai thác và phát
triển bền vững các nguồn lợi thuỷ hải sản.
Trong quá trình tìm hiểu các làng xã nơi đây, bằng nhiều nguồn tư liệu (văn bản,
điền dã dân tộc học), chúng tôi nhận thấy trên thực tế, từng tồn tại nhiều phương thức
quản lý, khai thác mặt nước chặt chẽ của các cộng đồng làng xã; giữa các cộng đồng làng
xã, trên một không gian rộng lớn. Điều đáng nói là hệ thống tri thức bản địa này hầu như
chưa bao giờ chính thức được coi là một đối tượng nghiên cứu mang tính ứng dụng, kế
thừa trong việc quản lý, khai thác vùng thuỷ diện.
Mặt nước thuộc lưu vực sông Hương và phá Tam Giang không “vô chủ ” như cách
nghĩ của người nông dân trên bộ, và cũng không chắc hẳn các vạn đò trôi nổi trên mặt nước
là hoàn toàn có quyền khai thác ở một khu vực nhất định. Bằng nhiều nguồn tư liệu có được
ở các cộng đồng làng xã nông nghiệp lẫn ngư nghiệp, từ thượng nguồn phá Tam Giang thuộc
hạ lưu sông Ô Lâu cho đến vùng giữa, thuộc hạ lưu sông Bồ và sông Hương, chúng tôi cố
gắng phác thảo nên bức tranh “sở hữu” vùng thuỷ diện này cùng với những phương thức
quản lý truyền thống; xem xét chúng trong khả năng kế thừa có chọn lọc, phát huy một cách
hợp lý trong giai đoạn hiện nay.
Ở đây, chúng tôi tập trung khảo sát ở các làng Phong Lai (xã Quảng Thái, Quảng
Điền); Bác Vọng (Quảng Phú, Quảng Điền) và Thuỷ Tú (Hương Phong, Hương Trà).
2. Sông nước vùng Huế: những trường hợp cụ thể
Rõ ràng là với truyền thống nông nghiệp lúa nước chi phối bền chặt từ cái nôi châu
thổ Bắc bộ, đến miền Trung, người Việt cũng nhanh chóng chiếm lĩnh vùng đồng bằng
nhỏ hẹp dọc theo các lưu vực sông, thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Bằng phương
pháp định vị các địa danh làng xã được hình thành qua các thời kỳ trên bản đồ, như ở
Thừa Thiên, sẽ cho thấy được rất rõ điều đó. Từ thế kỷ XVI - XIX, quá trình đó ngày
càng được tăng cường và mở rộng, về diện tích, dân số cũng như s ố lượng cụ thể qua các
thời kỳ . Căn cứ sử liệu, địa chí cổ, sẽ làm nổi bật s ố lượng các đơn vị cơ sở (làng, thôn,
ấp, giáp): từ 170 xã, 21 thôn (năm 1553), tăng lên 234 xã, 23 thôn, 84 phường, 2 giáp, 1
ấp (năm 1776) và 413 (cuối thế kỷ XIX) (Vô danh thị, 1961: 21 - 23; Lê Quí Đôn, 1977:
78 - 80; QSQ triều Nguyễn, 2003: 1415). Hầu như toàn bộ các “làng cổ” của xứ Thuận
Hoá thuộc vùng đất Thừa Thiên, trong Ô châu cận lục, đều toạ lạc ở các lưu vực sông
Hương, sông Bồ và sông Ô Lâu... Tiếp tục phân tích số lượng làng xã mới được bổ sung
trong Ph ủ biên tạp l ục (1776), sẽ thấy từ những vùng đất lý tưởng ban đầu, các làng xã
mở rộng, trở nên “đất chật người đông”, nên người ta lại nhanh chóng: (1) đi về phía tây,
khai thác vùng lâm lộc ở phía thượng nguồn, và (2) tiếp tục đi về phía đông, khai thác
triệt để vùng chiêm trũng, cồn cát ven đầm phá, ven biển.
Các làng ở lưu vực sông Bồ, sông Hương mở rộng cương vực khai thác vùng đầm
phá, đồng bằng chua mặn, cồn cát phía đông: làng Phong Lai từ làng gốc Vu Lai, tương
tự là Bác Vọng, Bao La, Cổ Tháp..., dần hình thành nên cộng đồng mới (Phong Lai, Lai
Hà, Hà Lạc, Thủy Lập, Hà Đồ...).
Phá Tam Giang thời kỳ đầu đối với cộng đồng cư dân Việt mới đến quả thực là
hiểm địa, như ghi nhận trong hành trạng của Nội tán Nguyễn Khoa Đăng qua câu ca: “...
Thương em anh cũng muốn vô/Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang/Phá Tam Giang
ngày rày đã cạn/Truông nhà Hồ Nội tán cấm nghiêm”. Vấn đề ở chỗ là phá Tam Giang
“đã cạn”, thành Hạc Hải, mới dẫn đến quá trình khai thác ruộng nước ở những vùng bãi
bồi, ô biền chua mặn ven bờ. Năm Minh Mạng 2 (1821), đổi tên Hạc Hải thành Vụng
biển Tam Giang (QSQ triều Nguyễn, 1961: 68). Ở đây, người Việt từng bước tiếp quản
theo phương thức khai thác mặt nước, đánh bắt thủy s ản và sau cùng thành đồng ruộng.
Chúng tôi sơ bộ phác họa quá trình chiếm hữu vùng phá Tam Giang của các cộng đồng
làng xã như Phong Lai, Bác Vọng, Thủy Tú...: Về phía thượng nguồn là làng Phong Lai
và phường Hà Bạc. Kế đó là Bác Vọng với sự hình thành ấp Hà Đồ, Hà Lạc, gắn liền với
công lao cứu chúa Nguyễn của nhân vật Bà Tơ. Còn ở lưu vực sông Hương và phần còn
lại của phá Tam Giang là “thủy diện thế vi điền” của làng Thủy Tú: Nhờ vào ân thưởng
của vị khai canh Lê Búa vốn có công phò giá chúa tôi nhà Nguyễn, được quyền thu thuế
mặt nước, như là một loại ruộng đặc biệt.
3. Quyền sở hữu và phương thức quản lý, khai thác mặt nước
3.1. Phường Trúc Đăng hà bạc và làng Tròong ở Phong Lai (Quảng Thái)
Làng Hoài Lai (tưởng nhớ đến) được ghi nhận từ giữa thế kỷ XVI (Vô danh thị,
2001:59), đổi tên thành Vu Lai thời chúa Nguyễn (Trần Đại Vinh, 1992: 7). Làng được
cấu thành trên cơ s ở ba giáp: Lai Trung, Lai Thượng, Lai Hạ và phường trúc đăng Hà
Bạc. Sau đó, Lai Thượng biệt thành Vu Lai Thượng xã, trở thành làng Lai Thành (năm
Thiệu Trị I - 1847). Hai giáp còn lại vẫn thuộc xã Vu Lai (tổng Phù Lê, Quảng Ðiền) (Lê
Quý Ðôn, 1977: 80; Trần Ðại Vinh, 1992: 9). Quá trình này diễn ra chậm hơn ở Lai Hạ
và Lai Trung. Các vị thuỷ tổ Thất tộc đã đến canh phá vùng Lai Hạ: hai ngài họ Văn, họ
Phạm, Trần, Hoàng, Hồ, Lê, Nguyễn), đặc biệt canh khẩn vùng sông nước .
Thời Minh Mạng, diễn ra quá trình biệt đinh, Lai Hạ thành Phong Lai xã và Lai
Trung vẫn là một giáp; Trúc đăng Hà Bạc, từ phư ờng đổi thành ấp , biệt đinh trở thành một
đơn vị độc lập dưới thời Thiệu Trị, rồi thành xã Lai Hà (QSQ triều Nguyễn, 2003: 1427).
Sau đó Lai Trung lại xin biệt điền, đến năm Khải Ðịnh II (1918) mới giải quyết xong (Trần
Ðại Vinh, 1992: 5 - 6).
Ở đây, còn có một cộng đồng cư dân sông nước thứ hai là thôn Trung Làng; không
rõ thời điểm cụ thể nhưng ít nhất, cũng được thành lập từ đầu thế kỷ XX, với nhiều bộ
phận dân cư cấu thành: từ ấp Lai Hà, từ Hoà Xuân (thuộc Phong Chương), từ An Gia,
Kim Đôi (Quảng Điền), Hà Trung (Phú Vang). Khoảng thập niên 1960 - 1970, họ mới
bắt đầu định cư ở khu vực gần Cựa Rào. Hiện nay, tồn tại hai giả thiết giải thích tên gọi
Trung Làng: (1) vùng đất ở bên ngoài Troong [mương nước] của làng, theo cách nhìn của
người nông dân và (2) là làng của những người ở tròong (tức là ghe thuyền), đọc trại và
dần dần chuyển hoá thành Trung Làng.
Hai cộng đồng ngư dân Lai Hà và Trung Làng là nguồn lao động chính, chuyên
khai thác các nguồn lợi thuỷ sản (đáng chú ý là rong - phân bón cho nông dân trồng thuốc
lá); thậm chí ngày trước, ngư dân còn trồng thuốc lá, làm ruộng. Tuy nhiên, thực tế lịch
sử cũng ghi nhận quá trình bồi lắng nhanh chóng vùng đầm phá và do đất chật người
đông, các cộng đồng nông dân lại nhanh chóng chiếm lĩnh vùng bưng biền, cải biến thành
đồng ruộng. Lai Hà trong bối cảnh đó, trở thành một cộng đồng bán nông - ngư, rồi ngư
nghiệp chỉ còn là thứ yếu. Riêng Trung Làng, chương trình nuôi trồng thuỷ hải sản những
năm gần đây đã góp phần quan trọng trong việc phát triển ngư nghiệp, cải thiện đáng kể
cán cân quan hệ nông - ngư, cả trên phương diện kinh tế lẫn xã hội .
Quá trình đó như đều diễn ra ở các cộng đồng cư trú liền kề với vùng đầm phá, bằng
phương thức ngư nghiệp hoặc trồng trọt. Một văn bản thời Gia Long (1806) định cho
phường Hà Bạc làm đơn xin lĩnh thầu thường niên đầm Niễu (Nịu) (đầm Sản cho
phường Trung Hòa), giá 1.000quan. Đến thời Tự Đức, nơi đây trở nên rất cạn, làng xã có
đơn, được triều đình “chuẩn y đầm Hà Lạc ngày càng nông cạn, trong đó hiện thành
ruộng thu thuế linh 194 mẫu, về ph ải nộp thu ế lệ là 703 quan, liệu giảm 203 quan, còn
500 quan vẫn chiếu lệ trưng thu” (Nội Các triều Nguyễn, 1993: IV: 530-531, 533).
Từ đó, giữa các làng xã xảy ra tranh chấp, như giữa Phong Lai với Thế Chí (phía
đông), Hòa Xuân (phía bắc) và với Hà Lạc (phía nam)..., được phân xử một cách thấu
tình đạt lý, như trường hợp với Thế Chí: “Thâm dã Lai Hà tác nghệ, thiển dã Thế Chí
canh điền” (nơi nào sâu thì thuộc Lai Hà làm nghề ngư, nơi nào cạn do Thế Chí canh tác
làm ruộng), rồi “Phong Lai thượng, Phong Lai hạ, thượng hạ Phong Lai; Th ế Chí Đông,
Thế Chí Tây, đông tây Thế Chí, thượng chí Hà Bạc, hạ chí Hà Lạc, thâm dã vi đầm Lai
Hà, Th ế Chí quản trị vi ngư, thiển dã vi điền Ngũ giáp đồng công khẩn tự ” (Xem thêm
Huỳnh Đình Kết, Văn Đình Triền, Trần Đình Tối, 2000: 268-269).
Về phía hạ lưu sông Bồ, ở vùng Sịa, hòm bộ làng Thủ Lễ (Quảng Điền) hiện có tờ
trình từ đầu thế kỷ XIX cho biết: chằm Nam của đầm Vịnh Sịa “dần dần khô cạn” nên 6
xã Phò Lê, Thủ Lễ, Tráng Lực, Thạch Bình, An Gia, Mạc Da có đơn xin trưng, chia làm
6 phần, về sau (trong 2 năm: Ất Hợi 1815 - Đinh Sửu 1817) “xin thọ nộp quan thu ế theo
ruộng công loại mùa thu” với diện tích hơn 28 mẫu 7 sào. Ghi nhận từ kết quả điền dã,
chúng tôi được biết đây chính là vùng tự điền chung của Lục tộc thuộc tổng Khuông Phò,
như Thất tộc ở Phong Lai.
3.2. Hà Đồ, Hà Lạc của Bác Vọng (Quảng Phú, Quảng Lợi - Quảng Phước)
3.2.1. Dấu ấn nữ thần trong văn hoá Đàng Trong thời chúa Nguyễn
Dải đất hẹp ven bờ phá Tam Giang từ vùng Sịa lên đến vùng cửa sông Ô Lâu là kết
quả canh phá về sau của các cộng đồng làng xã gốc ven sông Bồ. Trong tương quan
chung với bối cảnh văn hoá Đàng Trong tiệm cận với tính chất Đông Nam Á, ở tầm vĩ
mô, các chúa Nguyễn đã rất biện chứng trong việc kế thừa các di sản bản địa, để rồi Đàng
Trong phát triển mạnh chủ yếu là nhờ (1) phát triển ngoại thương (cảng thị Hội Ai điển
hình, tái phục Đại Chiêm hải khẩu xưa), và (2) tôn trọng, tích hợp tín ngưỡng bản địa,
như tục thờ nữ thần, vào Phật giáo để xác lập hệ tư tưởng cho vùng đất mới: Bà Trời Áo
Đỏ - chùa Thiên Mụ năm 1601. Chúng tôi muốn xem xét vai trò của nhân vật Bà Tơ ở
làng Bác Vọng với sự hình thành các cộng đồng Hà Đồ, Hà Lạc ven phá Tam Giang
trong bối cảnh đó. Nguyên tắc thiêng hoá đã được chúa Nguyễn Hoàng vận dụng triệt để
nhằm nhấn mạnh tính “hợp lòng ng ười, hợp ý tr ời” của chính thể mới, từ nhiều cấp độ :
từ LÀNG XÃ qua hình ảnh cô thôn nữ - Bà Tơ ở làng Bác Vọng Đông (và cả Bà Tơ thứ
hai ở làng An Mô, Ái Tử, Quảng Trị); cho đến VÙNG MIỀN (Cô Gái Áo Xanh ở Ái Tử
- nhu cầu nhân tâm cho quân tình buổi đầu) và sau cùng là QUỐC GIA LÃNH THỔ
(Bà Trời Áo Đỏ ở Hà Khê với câu sấm truyền có vị chân chúa đến dựng nghiệp và sự ra
đời của chùa Thiên Mụ - nhu cầu nhân tâm cho dân tình)v.v...
BÀ TƠ TRONG DIỄN TRÌNH DẤU ẤN CÁC NỮ THẦN
TRONG QUÁ TRÌNH DỜI DỰNG THỦ PHỦ XỨ ĐÀNG TRONG
- Ái Tử QUA QUA
PHU NHÂN
- Trà Bát
BÀ TƠ
- Dinh Cát
AN MÔ
- Phước Yên
Hoành Sơn
- Bác Vọng BÀ TƠ
BÁC VỌNG
- Kim Long
- Phú Xuân
BÀ TRỜI
Hải Vân ÁO Đ Ỏ
3.2.2. Trường hợp Bà Tơ ở làng Bác Vọng
Làng Bác Vọng được thành lập khá s ớm, từ thế kỷ XVI, thuộc huyện Đan Điền (Vô
danh thị, 1961: 40); thế kỷ XVIII, trở thành Bác Vọng Đông Tây xã (Lê Quý Đôn, 1977:
80); đến thời Nguyễn, tách thành Bác Vọng Đông giáp, Bác Vọng Tây giáp (QSQ triều
Nguy ễn, 2003: 1427), nay thuộc xã Quảng Phú, Quảng Điền.
Cấu trúc làng Bác Vọng bao gồm “ĐÔNG, TÂY, ĐỒ, LẠC” - 4 bộ phận hữu cơ:
hai giáp Bác Vọng Đông, Bác Vọng Tây, cùng hai ấp Hà Đồ, Hà Lạc (Hà - yếu tố sông
nước). Di tích đặc biệt quan trọng ở đây là miếu Bà Tơ - thờ nhân vật có công phò giá
chúa Tiên trên phá Tam Giang, nhờ đó mà về sau, nhà chúa ban thưởng cho gia đình Bà
và cả làng Bác Vọng được quyền khai thác một phần mặt nước phá Tam Giang, về sau
hình thành các ấp Hà Đồ, Hà Lạc. Ở Hà Đồ hiện nay vẫn còn một ngôi miếu thờ Bà và
dân làng cúng tế thường niên (Minh niên, 11 - 12/giêng và húy nhật, 18/5ÂL), làng tổ
chức lễ hội cầu ngư và đua trãi, ở cả trên sông Bồ lẫn ngoài phá Tam Giang :
Giai thoại dân gian ghi nhận rằng trong một trận thủy chiến trên phá Tam Giang, bị
giặc truy sát, “chúa/vua tôi nhà Nguyễn” (?!)... phải một phen bôn tẩu. Quân lính ra sức
chèo chống, nhưng quai chèo bị đứt. Tình thế vô cùng khẩn cấp và chiếc thuyền của gia
đình Bà, người họ Trần của làng Bác Vọng lúc đó đang làm nghề trên mặt nước, đã kịp
thời dâng lên “mớ tơ”, hay “sọt tơ sống”, hay “tay lưới”... , cho thuyền kịp bện lại quai
chèo, nhờ đó thoát hiểm. Về sau, làng Bác Vọng đã được ban cấp quyền được khai thác
(đánh bắt, thu thuế đánh bắt, đi lại) trên một khu vực rộng lớn của vùng gần về phía
thượng nguồn phá Tam Giang (QSQ triều Nguyễn, 1997: I: 83 - 84); (QSQ triều Nguyễn,
1997: III: 282).
3.3. Thuỷ diện thế vi điền của làng Thuỷ Tú (Hương Phong, Hương Trà)
Trường hợp Thuỷ Tú không phải là một làng ngư, đã định cư từ rất s ớm, nhưng chỉ
có thổ cư, và đặc biệt là được quyền khai thác một vùng rộng lớn mặt nước sông Hương
và phá Tam Giang, nhờ vào một đặc ân, cũng rất đặc biệt. Đó là một ngôi làng nhỏ ở ngã
ba Sình, đối diện làng Sình qua sông Hương, với làng Thanh Phước qua một nhánh của
sông Bồ. Ngôi làng được ra đời khi Huế là thủ phủ , kinh đô, nhưng lại rất đặc thù: không
có ruộng đất nông nghiệp và cũng không có nghề nghiệp cụ thể nào. Ngài Khai canh Lê
Đại lang (húy Văn Búa) là một vị tướng có công phò giá các chúa Nguyễn. Khi luận công
khen thưởng, ông có nguyện vọng được làm khai canh một làng cạnh dinh phủ Phú Xuân.
Đương thời, do hết đất canh phá nên triều đình cắt một dải đất hẹp cuối làng Triều Sơn
làm thổ cư và ban cấp cho làng được quyền thu thuế đánh bắt thủy s ản vùng mặt nước
sông Hương và phá Tam Giang, mà trong các văn bản xưa hiện lưu giữ tại làng cho biết,
là: “Từ sơn đầu chí hải khẩu, thượng Bình Trị hạ chí Can Lô, thủy di ện thế vi điền”.
Trước đây, làng quản lý nhiều s ở sáo và nghề hớn, các “khẩu để ” cùng nhiều điểm
“lặt vặt” khác, tổ chức đấu giá hằng năm. Đội tuần đinh tổ chức theo phiên, định lệ thu
thuế mỗi năm hai kỳ . Lợi tức, trừ các khoản chi phí hành chính, được chia theo đầu suất
đinh (trai từ 18 tuổi, về sau người già và phụ nữ được tính nửa suất đinh). Do có nguồn
thu nhập lớn như vậy, nên cư dân không có nghề nghiệp nào khác, và gần như chỉ quen
nghề “đánh bạc”. Thậm chí đến những năm 1980, dân làng mới dần quen với việc làm
ruộng, học nghề hay buôn bán. Ngày trước, người ta “đánh bạc” quanh năm, đặc biệt là
trong ngày hội làng mồng 9-10/Chạp. Dân làng tập trung vui chơi, còn xung quanh là
hàng quán “phục vụ ” trên bến, dưới thuyền bởi người dân các làng cận cư.
Hiện nay, ở làng Thuỷ Tú vẫn còn lưu giữ một s ố văn bản quan trọng, có thể làm
sáng tỏ nhiều vấn đề lịch sử - văn hoá của một ngôi làng “thuỷ diện thế vi điền” có một
không hai. Bản văn tế cho biết khá tường tận về các vị khai canh của làng .
Tìm hiểu bản Châu bộ Gia Long (29/8/Gia Long thứ 12), có thể thấy được công lao
đặc biệt đó của các bậc tiền nhân: “...do Tiên nhân tổ ph ụ đời trước của làng chúng tôi có
công lao giúp rập phò vua vào khai qu ốc tại xứ Thuận Hoá. Sau công cuộc khai quốc,
làng chúng tôi được ban cấp cho quy ền được lấy mặt nước thế ruộng (thuỷ diện thế vi
điền), ranh giới như sau: Phía trên từ làng Bình Trị, phía dưới đến xứ Can Lô; phía đông
g ần biển, phía tây gần núi; phía nam giáp ruộng làng Thanh Lam, phía b ắc giáp xứ đất
Cồn Nôm...”.
Theo đó, trong giới hạn mặt nước được khoanh vùng, hằng năm, làng cho thuê đóng
các sở sáo, nghề hớn (còn lại là tiểu nghệ) (?)v.v... Nguồn thu nạp quốc thuế 449 quan,
còn lại “làng chúng tôi hội đồng quân cấp lương đi ền khẩu phần cho toàn dân và chi tiêu
việc công của làng”. Do vậy mà toàn bộ đời sống kinh tế “truyền thống” của làng đều
“nhờ mặt nước ấy mà sinh sống, vì ngoài mặt nước ấy, dân làng chúng tôi không có
ruộng đất gì cả và cũng hưởng thụ mặt nước trên này như nguyên tắc ruộng đất có trưng
khẩn của các làng khác”.
Vào thời Gia Long, hạng nhất trong “thuỷ diện thế vi điền” ở đây bao gồm các s ở
sáo, các nghề hớn và xứ nước Vịnh Xưởng, tổng cộng là 33 s ở, nộp quan thuế 449 quan.
Các sở “ngư nghệ ” ở đây cũng được phân định theo từng cấp độ chi tiết, có định vị rõ ràng
“tứ cận” như thể thức địa bộ. Ví dụ trong 33 s ở, phân bổ : 20 sở sáo chánh, thuế 404 quan
(4 sở hạng Nhất, 10 s ở hạng Nhì, 6 s ở hạng Ba); 12 s ở nghề hớn, thuế 40 quan (2 sở hạng
Nh ất, 4 sở hạng Nhì, 6 s ở hạng Ba); xứ Vịnh Xưởng, 5 quan; cùng 68 s ở phụ .
Chính vì sự phân định ranh giới thượng - hạ, đông - tây chưa được chặt chẽ nên
trong quá trình quản lý, khai thác mặt nước, tất yếu nảy sinh nhiều vấn đề, nhất là trong
quan hệ với các làng xã cận cư. Bản Châu bộ thời Minh Mạng của làng Thuỷ Tú
(15/5/Minh Mạng thứ 15 - 1834), cho thấy được sự điều chỉnh, bổ sung cần thiết, cả về
những điều khoản nội dung cũng như địa bàn cụ thể.
Châu bộ Gia Long là bản “địa bộ ” đặc biệt quan trọng, khẳng định và là cơ s ở pháp lý
cho quyền quản lý, khai thác trên một diện tích mặt nước rộng lớn của làng Thuỷ Tú. Từ sự
kiện tụng của các làng xã khác, tháng 3/Minh Mạng thứ 11 (1830), các làng xã Thanh Lam
và An Truyền đồng loạt phát đơn tranh kiện với Thuỷ Tú về vấn đề cương vực. Sự việc kéo
dài, khó có thể được giải quyết thấu đáo, mặc dù chính quyền nhiều lần can thiệp. Trong quá
trình đó, một kết quả nghị sự xem ra đã làm hài lòng cả các bên liên quan được đưa ra, làm
cơ sở cho việc xác định một cương vực mới phù hợp với quyền lợi của các cộng đồng làng
xã. Sâu xa là bởi Châu bộ Gia Long “chỉ nói suông địa phận làng ấy làng nước thế ruộng,
phía trên t ừ làng Bình Trị, phía dưới đến xứ Can Lô, phía đông gần biển, phía bắc giáp xứ
Cồn Nôm” và cũng không hề có “các làng đối diện, tiếp giáp làm gi ấy hi ệp phù nh ận giới”.
Do vậy, một đường biên mới được xác lập, lần nữa giới hạn quyền chiếm hữu, quản lý và
khai thác mặt nước của làng Thuỷ Tú trong tương quan với các cộng đồng làng xã cận cư:
“Mặt nước phía trên từ bờ đất làng Triều Thuỷ thẳng đến xứ Tang Huy của làng An Truyền,
thông vào xứ Mui Hang của làng Xuân Ổ, về phía nam là ph ần đầm của hai làng Thanh
Lam và An Truyền; về phía b ắc là địa phận nước của làng Thuỷ Tú. Việc xét xử này đã hợp
và lập mốc giới để ngày sau khỏi tranh tụng nhau n ữa”.
Từ đó, làng Thuỷ Tú mới được xem xét, tiến hành tu chỉnh lại Châu bộ để “chánh
ngạch tịch địa phận rõ ràng”, với những nội dung chính như sau:
1. Địa phận nước của làng Thuỷ Tú:
- Phía trên: giáp bờ đất xứ ruộng công Thuận Tài của làng Bình Trị, tổng Kế Mỹ ,
huyện Hương Trà và bờ đất bến đò ngang, và lấy bờ sông làm giới hạn.
Giáp với bờ đất xứ ruộng công Địa Ban xứ Cồn Hô của hai làng Vân Quật Thượng,
Hạ giáp, lấy bờ đất bến đò ngang và bờ sông làm giới hạn.
Giáp với 2 sở nghề hớn, nghề sáo Chàng Hàng của ấp Thuỷ Điền Thượng (Phước An,
Quảng Điền) và đối ngang qua hai bên tả hữu là bến đò ngang của làng Bình Trị và làng Vân
Quật, đã có tờ đối nhận hiệp phù nhận giới hạn.
- Phía dưới: giáp với bờ đất xứ Can Lô, Ba Lôi của ấp Hà Úc (Diên Trường, Phú
Vang, lấy bờ đất và bờ sông làm giới hạn.
Giáp với bờ đất tư điền Hà Đá của ấp Trừng Hà (Mậu Tài, Phú Vang), lấy bờ đất và
bờ sông làm giới hạn.
Giáp với mặt nước làng Hà Trung (Diên Trường, Phú Vang), đối diện tả hữu là bờ
đất Can Lô của ấp Hà Úc, bờ đất xứ Hà Đá của ấp Trừng Hà làm giới hạn.
- Phía đông: giáp cửa biển Thuận An.
- Phía tây: giáp chân núi, thuộc hai ấp Dương Lăng Thượng, Hạ, tổng Kim Long,
huyện Hương Trà, lấy chân núi và bờ sông làm mốc giới.
Giáp chân núi, thuộc ấp Thạch Hàn (Kim Long, Hương Trà), lấy chân núi và bờ
sông làm giới hạn.
- Phía nam: giáp mặt nước đầm Thanh Lam (Dã Lê, Phú Vang). Lấy bờ đất xứ
Tăng Huy của làng An Truyền thông vào bờ đất xứ Mũi Hàn làng Xuân Ổ lập mốc giới.
Giáp với mặt nước đầm làng An Truyền (Vĩ Dã, Hương Trà). Lấy bờ đất xứ Sải Bần
thẳng đến bờ đất xứ Tân Huy lập mốc giới.
Giáp với hai xứ ruộng tư điền là Cồn Trâu, Cồn Dài thuộc địa phận làng Triều
Thuỷ , tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà, trồng mốc làm giới hạn.
Giáp với bờ đất xứ ruộng Cồn Điền tên là Mũi Hàn của làng Xuân Ổ (Kim Long,
Hương Trà), lấy bờ đất và bờ sông làm giới hạn.
- Phía bắc: giáp với những xứ tên là Ong Vẽ, Oan Ương, Cồn Mồ, Làng Phan thuộc
điạ phận làng Thai Dương Thượng, tổng Kế Mỹ , huyện Hương Trà, lấy bờ sông làm giới
hạn.
Giáp với xứ Bạch Sa Cao Động thuộc địa phận làng Thai Dương Hạ, lấy bờ sông
làm giới hạn.
2. Phân loại: Đến thời Minh Mạng, s ố “ruộng nước các sở sáo, các sở nghề hớn,
xứ Vịnh Xưởng, cộng 99 sở ”, gồm 86 s ở sáo, 12 sở nghề hớn và s ở Vịnh Xưởng, với tổng
ngạch thuế 609 quan/năm, phân thành các hạng cụ thể như sau:
- 86 sở sáo: 3 sở hạng nhất, 10 s ở hạng hai và 73 s ở hạng ba.
- 12 sở nghề hớn: 2 s ở hạng nhất, 4 s ở hạng hai và 6 s ở hạng ba.
- Sở Vịnh Xưởng.
Riêng các sở sáo hạng 3, Châu bộ liệt kê 56 sở, mức thuế mỗi sở hằng năm là 4
quan. Cũng do hiện tượng bồi lắng của đầm phá mà đã có tới 12 sở sáo được chiết trừ
ngạch thuế bởi nước cạn, không trưng khẩn được.
Cuối bản Châu Bộ thời Minh Mạng là văn bản chứng thực ranh giới của lý trưởng
các làng xã cận kề (giấy hiệp phù nhận giới). Căn cứ vào đây, có thể thấy được phác đồ
quản lý, khai thác mặt nước phá Tam Giang và sông Hương của làng:
1. Làng Bình Trị, tổng Kế Mỹ , huyện Hương Trà (Lý trưởng Đỗ Viết Trách,
Hương mục Hoàng Trọng Diêu).
2. Làng Vân Quật Đông, Vân Quật Thượng (hai giáp), tổng Vĩ Dã, huyện Hương
Trà (Lý trưởng Phan Văn Chiêu, Lý trưởng Lê Văn Cưu).
3. Ấp Thuỷ Điền Thượng, tổng Phước An, huyện Quảng Điền (Lý trưởn Nguyễn
Văn Ứng, Dịch mục Lê Văn Tính).
4. Ấp Hà Úc, tổng Diêm Trường, huyện Phú Vang (Lý trưởng Phạm Văn Ngạn,
Dịch mục Huỳnh Văn Vinh).
5. Ấp Trừng Hà, tổng Mậu Tài, huyện Phú Vang (Lý trưởng Dũ Đức Lâm, Hương
mục Lê Văn Nội, Dũ Đức Đoan).
6. Làng Hà Trung, tổng Diêm Trường, huyện Phú Vang (Lý trưởng Mai Văn Lợi,
Thủ bộ Nguy ễn Văn Tài, Dịch mục Mai Văn Tài).
7. Làng Dương Lăng Thượng Hạ hai giáp, tổng Kim Long, huyện Hương Trà (Lý
trưởng Phan Văn Pháp, Hương mục Phan Văn Mạt).
8. Ấp Thạch Hàn, tổng Kim Long, huyện Hương Trà (Lý trưởng Nguyễn Văn Lễ,
Dịch mục Phan Văn Thanh).
9. Làng Thanh Lam, tổng Dã Lê, huyện Phú Vang (Lý trưởng Lê Văn Trực, Dịch
mục Nguyễn Văn Điền).
10. Làng An Truyền, tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà (Lý trưởng Hồ Đắc Đức, Dịch
mục Hồ Văn Cương).
11. Làng Triều Thuỷ , tổng Vĩ Dã, huyện Hương Trà (Lý trưởng Phan Hữu Trung).
12. Làng Xuân Ổ, tổng Kim Long, huyện Hương Trà (Lý trưởng Phan Trương
Hoan).
13. Làng Thai Dương Thượng, tổng Kế Mỹ , huyện Hương Trà (Lý trưởng Nguyễn
Văn Thanh, Dịch mục Dũ Văn Vay).
14. Làng Thai Dương Hạ, tổng Kế Mỹ , Hương Trà (Lý trưởng Dũ Văn Mong).
4. Phương thức quản lý
Từ các nguồn tư liệu phân tích ở trên, có thể có được một cái nhìn tổng quan về
phương thức quản lý vùng mặt nước sông Hương và phá Tam Giang của các cộng đồng
làng xã, của nhà nước phong kiến Nguyễn.
4.1. Danh mục thuế sông nước do nhà nước trực tiếp qu ản lý
Ở vùng đất tựa núi sát biển, lại có hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai làm vùng đệm, nơi
hội tụ trung chuyển của cả một hệ thống sông ngòi dày đặc trước khi đổ ra biển, từ buổi đầu
của lịch sử vùng đất, thuế sông nước đã sớm trở thành một nguồn thu quan trọng ở xứ Thuận
Hoá, xứ Đàng Trong (Vô danh thị, 1961; Lê Quí Đôn, 1977). Về sau, “Sông ngòi trong phủ
hạt chằng chịt như mắc cửi. Chỉ k ể những con sông lớn thì có các sông như sông Hương,
sông Bồ, sông Lợi Nông, sông Hưng Bình, phá Tam Giang, phá Hà Trung” (QSQ triều
Nguy ễn, 2003: 1417). Đến thời Đồng Khánh, biểu thuế cả năm của các sở thuế có liên quan
tới vùng sông nước Thừa Thiên được qui định cụ thể ở các đầm: An Truyền, Thanh Lam, Hà
Trung, Bác Vọng, Lai Hà, An Xuân, La Bích là 2935 quan 5 tiền (QSQ triều Nguyễn, 2003:
1416). Đối chiếu với danh mục các đầm trong vùng, chúng ta có thể có một danh mục đầy đủ
gồm 14 đầm: Đầm Tô Đà, Hậu (Sam), Mỹ Á, Nghi Giang, Võng, Giang Sâm, An Gia (QSQ
triều Nguyễn, 1961: 69-71).
4.2. Vùng sông nước do các làng xã quản lý
Thông thường, quyền s ở hữu của cộng đồng làng xã đối với đồng ruộng hay vùng
sông nước, về cơ bản, gắn liền với công lao khai phá của các vị thuỷ tổ khai canh. Đặc
biệt, quá trình đó đã được nhà nước phong kiến cổ suý bằng nhiều phương thức (chủ
trương, hỗ trợ phương tiện vật chất, tài chính, thuế ưu đãi...) và nhanh chóng có sự thừa
nhận chính thức bằng văn bản (s ắc phong, cương giới).
Đồng thời, thực tế cũng tồn tại nhiều hiện tượng diễn tiến theo hướng hoàn toàn chủ
động từ phía các làng xã, sâu xa, nhằm thiêng hoá, lịch sử hoá, cụ thể hoá công lao khai
phá đó của tiền nhân, nối kết và gắn liền làng xã cùng đất nước. Giai thoại liên quan tới
miếu thờ Đông Nam Sát Hải Lang Lại Nhị đại Tướng quân từ thời Gia Long của các làng
xã thường gắn liền hiện tượng “địa phương hoá” cốt chuyện để nhấn mạnh đến tính đặc
thù của cộng đồng. Chính vì vậy mới dẫn tới hiện tượng các làng xã bị “khai thiếu” niên
đại vốn có bởi sự gắn kết máy móc lịch sử làng xã và đất nước, “lịch sử hoá” địa phương
thông qua sự kiện các bậc thuỷ tổ di cư vào nam theo Đoan Quận công năm Mậu Ngọ
(1558), bởi từ năm 1553, xã thôn đó đã được ghi nhận trong Ô châu cận lục.
Cho dù còn thiếu nhiều nguồn tư liệu thành văn đáng tin cậy trong việc làm rõ thân
thế của nhân vật Bà Tơ nhưng rõ ràng, đó là kết quả đặc biệt, dấu mốc khẳng định quyền
khai thác mặt nước của làng Bác Vọng. Tất cả đều được biểu hiện cụ thể, sinh động qua
thiết chế miếu thờ, lễ nghi thờ phụng, lễ hội cầu ngư tôn vinh, hệ thống giai thoại truyền
khẩu. Do vậy, cũng không ngạc nhiên với trường hợp Bà Tơ thứ hai tương tự, ở vùng An
Mô (Ái Tử, Quảng Trị) bởi sự phổ quát của quá trình lịch sử hoá. Thái độ “thiêng hoá”
một cách cực đoan như ở An Mô cần được xem xét thấu đáo, bởi từ thời phong kiến, triều
đình từng có chỉ dụ khuyến cáo rộng khắp. Một văn bản năm Ðồng Khánh II (1887) nêu
rõ: "Các xã giáp Bác Vọng, An Truyền và Thanh Lam đệ đơn khiếu nại. Có nơi trình
trước kia có công dẹp gi ặc, mong được ban ân chuẩn cho miễn đấu giá để xã dân tiếp t ục
được lãnh trưng; nơi thì trình thời tiền triều ban thưởng cho công tòng giá, nên xin được
lãnh trưng...." (QSQ triều Nguyễn, 2005: III: 70).
Mặc dù không được các tài liệu đề cập một cách có hệ thống nhưng từ nhiều nguồn
tản mác khác nhau, chúng tôi cũng nhận ra được sự xác định một cách tương đối quyền
khai thác mặt nước của một s ố cộng đồng làng xã, như trường hợp các làng ven biển đối
với vùng sông nước. Mục Phong tục, huyện Phong Điền có nói: “Năm xã ấp ở ven biển
là Trung Đồng, Mỹ Hoà, An Lộc, Cương Gián Đông, Cương Gián Tây ở trên vùng cát
trắng, không có ruộng đất, chỉ có nghề xuống biển đánh cá mà thôi. Dân ấp Hoà Xuân
thì ruộng đất chẳng được là bao, cũng chỉ ngồi thuyền lênh đênh trên sông nước đánh cá
kiếm sống...” (QSQ triều Nguyễn, 2003: 1428- 1429). Tương tự là trường hợp làng An
Bằng (Vinh An, Phú Vang), đối với quyền đánh bắt ven bờ biển suốt một dải dài từ cửa
Thuận An đến Tư Hiền (Lê Văn Thuyên, Lê Nguyễn Lưu, Huỳnh Đình Kết, 2008: 242-
245).
4.2.1. Các làng ngư trực tiếp qu ản lý
Có thể phát xuất từ nhiều nguồn gốc khác nhau (nông dân mất ruộng, xiêu tán, từ
các đoàn thuỷ binh...) và khó xác định thời điểm hình thành nhưng đến cuối thời Nguyễn,
chỉ riêng huyện Hương Thuỷ đã có 5 tổng, 57 xã thôn ấp giáp mạn, trong đó tổng Võng
Nhi có 16 thôn ấp giáp mạn và được ghi nhận thêm là “đều ở trên mặt nước, không có
đất đai”:
1. thôn Quảng Tế. 10. thôn Xuân Hồi
2. thôn Trọng Đức. 11. thôn Chính Quảng
3. giáp Thượng thôn Miêu Nha. 12. thôn Nghĩa Quán
4. giáp Trung thôn Miêu Nha. 13. ấp Tân Thuỷ
5. giáp Đông thôn Miêu Nha. 14. thôn An
6. giáp Hạ thôn Miêu Nha 15. thôn An Thượng
7. thôn Trung An 16. thôn Kinh Dân
8. mạn Giang Hồ
9. thôn Phụ Quảng (QSQ triều Nguyễn, 2003: 1422- 1423).
Một khảo sát từ năm 1982-1983 đã cung cấp một tài liệu rất quan trọng: chính thức
hành chính hoá tổng Võng Nhi thời Tự Đức, gắn liền với một nhân vật xuất thân ngư dân,
Tiến sĩ Hoàng Hữu Thường (Nguyễn Văn Tiến, 1983).
Bên cạnh đó, nhiều cộng đồng ngư nghiệp có lịch sử hình thành rõ ràng từ trước, gốc
nông nghiệp, như Bác Vọng, Phong Lai, vẫn tiếp tục khai phá mặt nước trong vùng. Vấn đề
cương giới được xác định rõ ràng và thường ít nảy sinh mâu thuẩn bởi khoảng cách kinh tế -
xã hội của hai cộn đồng ngư dân - nông dân. Về sau, vùng đầm phá bị bồi lắng, cùng sự bùng
nổ dân số, nhu cầu ruộng đất canh tác..., các làng xã nông nghiệp lại tiếp tục khai thác vùng
bưng biền sình lầy, chua mặn. Ruộng đất tế tự chung của làng Phong Lai (xứ Thất tộc), hay
các làng thuộc tổng Khuông Phò... ra đời trong bối cảnh ấy.
Điều cần lưu ý là ở các khu vực này, phương thức đánh bắt thuỷ hải sản “truyền
thống” thường giản đơn, nặng tính thủ công. Phạm vi khai thác lớn chủ yếu vẫn là các hình
thức trộ chuôm, nò sáo, trên nguyên tắc tôn trọng và dựa vào tự nhiên. Còn lại các hình thức
khai thác khác như câu, cào, bủa lưới, dũi... vẫn được xem là “tiểu nghệ ”. Đó là chưa kể đến
vốn tri thức bản địa của các cộng đồng ngư dân trong lịch thời vụ , công cụ , phương tiện đánh
bắt.
4.2.2. Vùng sông nước thuộc quyền quản lý của làng Thuỷ Tú
Theo qui chế ao đầm thời Nguyễn, các sở đó thuộc quyền quản lý của chính quyền
phủ , huyện, giao đến tận xã. Tuỳ từng trường hợp ao đầm, gắn liền với lịch sử làng xã cụ
thể, mà nhà nước áp dụng theo hình thức cho lĩnh trưng hay tiến hành tổ chức đấu giá,
thường niên.
Riêng đối với các sở sáo, sở nghề hớn của Thuỷ Tú, làng được quyền tổ chức đấu
giá thường niên và các cộng đồng ngư dân trong vùng được tự do tham gia ở chính từng
khu vực cụ thể. Sau khi niêm yết danh mục, các đối tượng trúng thầu được quyền khai
thác và nộp thuế. Đội tuần đinh của làng được tổ chức theo phiên, định lệ thu thuế mỗi
năm hai kỳ .
5. Vấn đề đặt ra
5.1. Phác đồ: Từ những thông tin như vậy, có thể tạm phác hoạ bức tranh xác định
quyền khai thác mặt nước vùng sông Hương và phá Tam Giang
5.2. Nhận xét:
Từ thái độ cực đoan miệt thị “Kẻ Nốôc”, ngư dân - ngư nghiệp và vùng sông nước
nói chung, kinh tế hàng hoá mở ra giúp cho thuỷ sản lên ngôi, đã góp phần làm thay đổi
quan niệm cố hữu đó, thậm chí còn chuyển sang thái cực khác: ồ ạt phát triển nuôi trồng,
đánh bắt thuỷ hải sản đến mức lạm dụng. Tuy nhiên, điều đáng bàn là trong quá trình
chuyển đổi đó, việc điều tra, khảo sát lịch sử vấn đề, vấn đề tri thức bản địa, phương thức
quản lý truyền thống của các cộng đồng trong vùngv.v... chưa được quan tâm xem xét
nghiêm túc.
Khi tìm hiểu về hương ước lệ làng vùng Bình - Trị - Thiên, chúng tôi nhận thấy nếu
như từ thời thực dân, phong kiến trở về trước, làng xã là thành trì mà nhà nước luôn tìm
cách hướng đến, kiểm soát... thì về sau, vấn đề làng xã lại như tồn tại nhiều khoảng trống
(Nguyễn Hữu Thông, Trần Đình Hằng, Lê Anh Tuấn, 2007). Kế thừa có chọn lọc những
điểm phù hợp và điểm quan trọng cần chú ý là không gian làng xã hiện nay hầu như
không còn đảm bảo như vốn dĩ trước đây bởi sự mở rộng của giao thương, hệ sinh thái tự
nhiên. Vùng thượng nguồn phá Tam Giang hiện nay không thể chỉ được xem xét giới hạn
trong địa giới hành chính của một làng, một xã hay vài xã trong vùng, mà quan trọng
hơn, phải được đặt trong bối cảnh rộng lớn hơn, dụ như nạn phá rừng đầu nguồn và vấn
đề lũ lụt, ảnh hưởng đến các nguồn tài nguyên phía hạ lưu, vấn đề sinh kế trong bối cảnh
thay đổi khí hậu toàn cầu được đặt ra bức bách hơn, tương tự là tác động lâu dài của đập
Cửa Lác về mặt sinh thái, chủng loài động thực vật ...
Kết quả khảo sát ở Phong Lai cho thấy một sự chuyển dịch cán cân quan hệ rõ nét trên
nhiều phương diện (kinh tế, xã hội) giữa hai cộng đồng nông - ngư trên cùng một địa bàn,
thông qua những biểu hiện cụ thể. Từ một mối tương quan tổng thể bền vững của cơ cấu Con
cá - Rong (của đầm phá/ngư dân) với cây Thuốc lá, Gạo, Khoai (của đồng ruộng/nông dân),
nhanh chóng có sự biến đổi. Ngày trước, lúa gạo cao giá thì các nhu cầu khác, chỉ là thứ yếu.
Ngư dân lao đao là vì vậy, đặc biệt lại thêm tâm lý bị miệt thị. Cho đến khi thủy s ản lên ngôi
và thuốc lá mất đi vai trò thì hoạt động kinh tế của người dân có sự điều chỉnh đáng kể, đặc
biệt là xu thế hướng ra đầm phá của người nông dân. Cây RONG, trong bối cảnh đó, cũng
mang sứ mạng mới: từ phân bón cho thuốc lá, trở thành thức ăn cho cá - phương thức, mục
đích khai thác và sử dụng đã có sự thay đổi. Đó là chưa kể đến sự lạm dụng thái quá trên
nhiều phương diện: nuôi trồng (cả về diện tích lẫn chủng loại tôm, cá; các nguồn thức ăn...),
công cụ đánh bắt mang tính huỷ diệt (xung điện, lưới quét, các dàn cào lươn bằng thuyền
máy...), làm cho nguồn nước ở khu vực này bị ô nhiễm trầm trọng, diện tích mặt nước bị
chiếm cứ đến mức dày đặc, khó có thể đi lại bằng ghe thuyền, ngăn trở cả dòng chảy.
Ở các cộng đồng Hà Đồ, Hà Lạc... ven bờ phá Tam Giang, hiện cũng gặp nhiều vấn
nạn tương tự, vượt ra khỏi khả năng giải quyết, điều tiết của từng làng xã. Riêng Thuỷ Tú
thì số phận ngôi làng có phần nghiệt ngã hơn bởi họ hoàn toàn không có ruộng đất nông
nghiệp, cư dân không sinh sống trên một nền tảng nghề nghiệp căn bản nào. Có thể nói là
kể từ sau năm 1975 và kéo dài cho tới những năm 1980, trong chương trình hợp tác hoá,
hầu như mọi quyền lợi về khai thác mặt nước của làng đều bị thu hồi và bù lại, họ cũng
được phân phối một quĩ ru ộng đất từ nguồn s ống căn bản của các làng xã nông nghiệp lân
cận.
Cho đến hiện nay, Thuỷ Tú chỉ còn lại thực sự là một làng nhỏ ở ngã ba Sình, chịu sự
phân hoá nghiệt ngã, mạnh mẽ của quá trình đô thị hoá từ bối cảnh một ngôi làng ven đô.
Truyền thống gần như bị đứt đoạn, gói gọn lại trong hai tấm bản đồ chi tiết và hai bản châu
bộ về quyền khai thác mặt nước, trở nên thuần tuý là một hiện vật bảo bối chứa đựng đầy nỗi
niềm hoài vọng của cả một cộng đồng luôn phải trở trăn trong cuộc mưu sinh thời hiện đại.
Phát triển bền vững tất yếu phải biết kế thừa có chọn lọc một cách hợp lý. Lịch sử
nghiên cứu vấn đề và khảo sát thực trạng trên nhiều phương diện, khả năng dự báov.v... cần
được đặc biệt chú trọng đầu tư trong việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu thiết yếu về vùng
sinh thái nhân văn sông Hương - phá Tam Giang, trên nguyên tắc tôn trọng và kế thừa biện
chứng những gì thuộc về di sản. Có lẽ chỉ với cách đặt vấn đề và thái độ, phương pháp tiếp
cận như vậy thì việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở vùng sinh thái sông nước đặc
biệt quan trọng này mới có hướng triển khai một cách khả dĩ.
T.Đ.H
(trích từ Thông tin Khoa học,
Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam tại Huế,
số tháng 3/2008, trang 23-44)
Tài liệu tham khảo
1. Cadière, Léopold., (1906), “Le mur de Dông-hoi: étude sur l'établissement des Nguyên en
Cochinchine” (Bức tường Đồng Hới: Nghiên cứu về quá trình dựng nghiệp của họ Nguy ễn xứ Đàng
Trong), Bulletin de l''Ecole francaise d''Extrême-Orient (B.E.F.E.O), tập 6, số 1 - 2, các trang 87 -
254.
2. Chapuis. A. (1932) “Les lieux de culte du village de Bac- Vong-Dong” (Những nơi thờ cúng ở làng
Bác Vọng Đông), Bulletin des Amis du Vieux Hue (B.A.V.H), số 4: 371 - 410.
3. Chapuis A. (1937), "La maison annamite au point de vue religieuse" (Ngôi nhà của người An Nam
dưới góc nhìn tôn giáo), B.A.V.H, số 1, các trang 1 - 50.
4. Cục lưu trữ nhà nước, Ðại học Huế, Trung tâm nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu văn hoá (1998),
Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập II: năm Minh Mệnh 6 (1825) và 7 (1826), H.: Nxb. Văn hoá.
5. Cục thống kê Quảng Điền (2001), Niên giám thống kê huyện Quảng Điền năm 2000, Cục Thống kê
Quảng Điền Xb.
6. Hoàng Thị Ái Hoa (2005), “Trống Đá - Miếu Bà Giàng và lệ thành đinh ở làng hưng Nhơn (Hải Hoà,
Hải Lăng, Quảng Trị)”, trong Thông tin Khoa học, Huế: Phân Viện Nghiên cứu Văn hóa Thông tin
t ại Huế, số tháng 3: 94 - 104.
7. Huỳnh Đình Kết, Văn Đình Triền, Trần Đình Tối (1999), Địa chí văn hóa xã Quảng Thái, Huế: Nxb.
Thuận Hóa.
8. Lê Đình Hùng (2005), “Dấu ấn nữ thần trên bước đường Nam tiến của Tiên chúa Nguyễn Hoàng”, Thông
tin Khoa học, Huế: Phân Viện NC VHTT tại Huế, số tháng 9: 36 - 45.
9. Lê Nguyễn Lưu (1995), “Sự tích miếu Bà Tơ ở làng Bác Vọng Đông và các lễ hội liên quan”, trong
Nhiều tác giả (1995), Từ Huế … đến Quảng: Huế - đẹp thơ, ngàn năm di s ản, Đà Nẵng: Nxb. Đà
Nẵng: 103 - 109.
10. Lê Quý Đôn (1977) Toàn tập , tập I, Ph ủ biên tạp l ục, Hà Nội: Nxb.KHXH.
11. Lê Văn Thuyên, Lê Nguyễn Lưu, Huỳnh Đình Kết (2008), Văn bản Hán Nôm làng xã vùng Huế,
Huế.: Nxb. Thuận Hoá.
12. Nguy ễn Hữu Thông, Trần Đình Hằng, Lê Anh Tuấn (2007), Mạch sống của hương ước trong làng
Việt Trung bộ: dẫn liệu từ các làng ở Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên, Huế: Nxb. Thuận Hóa.
13. Nguy ễn Thế Anh (2005), “Thiên Y A Na hay sự tiếp nh ận nữ thần Po Nagar của các triều đại Nho
giáo Việt Nam ”, T/c Xưa và Nay , số 4 (233): 29 - 33.
14. Nguy ễn Thị Tâm Hạnh (2006), “Ghi chép từ Cồn Mệ ở làng Phong Lai (Quảng Thái, Quảng Điền,
Thừa Thiên Huế)”, trong Thông tin Khoa học, Huế: Phân Viện Nghiên cứu Văn hóa Thông tin t ại
Huế, số tháng 9.
15. Nguy ễn Văn Tiến (19 83), Cư dân vạn đò sông Hương, Huế.: Trường Đại học Tổng hợp Huế, Luận
văn tốt nghiệp khoa Lịch sử.
16. Nội Các triều Nguyễn (1993), Khâm đ ịnh Đại Nam hội điển sự lệ, Huế.: Nxb. Thuận Hoá.
17. QSQ triều Nguyễn (1961), Đại Nam nhất thống chí- Thừa Thiên phủ, t ập Thượng, S.: Nha Văn hoá,
Bộ Quốc gia Giáo dục Xb.
18. QSQ triều Nguyễn (1962), Đại Nam thực lục, T ập I. Tiền biên, H.: Nxb. Viện Sử học.
19. QSQ triều Nguyễn (1963 - 1978), Ðại Nam thực lục, Chính biên, H.:Nxb. KHXH.
20. QSQ triều Nguyễn (1997), Ðại Nam liệt truyện, tập I, Tiền biên, Huế: Nxb. Thuận Hóa.
21. QSQ triều Nguyễn (1997), Đại Nam nhất thống chí, Huế: Nxb. Thuận Hóa.
22. QSQ triều Nguyễn (2003), Đồng Khánh địa dư chí, H.: Hội Sử học Việt Nam, Viện Viễn Đông Bác
Cổ Pháp, Trường Cao học Thực hành Pháp - Nxb. Th ế giới.
23. QSQ triều Nguyễn (2005), Khâm đ ịnh Ðại Nam hội điển sự lệ tục biên, H.: Nxb. Giáo dục.
24. T ạ Chí Đại Trường (2006), Thần người và đất Việt, H.: Nxb. VHTT.
25. Li Tana (2001), "Xứ Đàng Trong thế kỷ XVII và XVIII. Một mô hình khác của Việt Nam", trong
Nhiều tác giả (2001), Nh ững vấn đề lịch sử Việt Nam , H.: Nxb. Trẻ - T/c Xưa&Nay: 185 - 200.
26. Tôn Thất Bình (2003), Hu ế - lễ hội dân gian, Huế: Nxb. Thuận Hoá (In lần II. Tác phẩm được giải
thưởng của Hội văn nghệ dân gian Việt Nam năm 1996).
27. Trần Đại Vinh (1992), Vu Lai - Lai Trung chí lược, tập kh ảo cứu, bản lưu t ại làng Lai Trung.
28. Trần Đại Vinh (1995), Tín ngưỡng dân gian Huế, Huế: Nxb. Thuận Hoá.
29. Trần Đình Hằng (2004), "Sự tích miếu Bà Tơ và lễ hội cầu ngư ở làng Bác Vọng Đông", trong
Thông báo văn hóa dân gian, Viện Nghiên cứu Văn hóa: Nxb. Khoa học Xã hội.
30. Trần Đình Hằng (2006), "Làng Phong Lai: Sự ứng xử đa t ình huống", trong Viện Nghiên cứu Văn
hóa (2006), Thông báo Văn hoá Dân gian, 2005, H.: Nxb. KHXH.
31. Trần Ðình Hằng (2006b), “The vitality of a village without farming land in central Vietnam: the
pottery village of Phuoc Tich (Phong Hoa commune, Phong Dien District, Thua Thien Hue
Province)”, tham luận t ại hội thảo Going with the Past: Vietnamese Traditional Culture in
Contemporary Sosiety, Center for Vietnamese Philosophy, Culture & Sosiety, Temple University
(Philadenphia, P.A, USA), 6-7Octobre.
32. Vô danh thị (1961), Ô châu cận lục, Dương Văn An nhuận sắc, t ập thành; Bùi Lương phiên dịch, Sài
Gòn: Văn hóa Á châu xuất bản.
33. Vô danh thị (2001), Ô châu cận lục, Huế: Nxb.Thuận Hoá (Trần Đại Vinh, Nguyễn Văn Phước tân
dịch, hiệu chú).
Trích : làng xã truyền thống với việc Quản lý mặt nước vùng đầm phá Tam Giang, sông Hương Trần Đình Hằng
nếu quan tâm các bạn có thể đọc thêm Tiểu luận môn: SINH THÁI NHÂN VĂN , Đoàn Hồng Nhung Lớp K54-KHMT
nếu quan tâm các bạn có thể đọc thêm Tiểu luận môn: SINH THÁI NHÂN VĂN , Đoàn Hồng Nhung Lớp K54-KHMT
Không có nhận xét nào :
Đăng nhận xét